Nỗ lực giảm nghèo ở “lõi nghèo”
Lào Cai là tỉnh miền núi, biên giới có trên 60% là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Toàn tỉnh có 4/9 huyện, thị xã, thành phố là huyện nghèo được đầu tư theo Chương trình 30a của Chính phủ. Để giúp đồng bào sống ở các khu vực “lõi nghèo” (gồm 10 xã nghèo nhất của bốn huyện) có điều kiện vươn lên thoát nghèo, cùng với việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, tỉnh Lào Cai đã nỗ lực chỉ đạo thực hiện công tác giảm nghèo bằng nhiều giải pháp thiết thực mang lại hiệu quả cao.Lào Cai đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 24/5/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững đối với các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên đến hết năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, có xét đến năm 2030. Theo đó, Lào Cai có 10 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất tỉnh, còn được gọi là vùng "lõi nghèo" gồm Hoàng Thu Phố, Lùng Cải (huyện Bắc Hà), Dền Thàng, Pa Cheo (huyện Bát Xát), Nậm Chày (huyện Văn Bàn), La Pan Tẩn, Tả Thàng, Tả Ngải Chồ, Dìn Chin, Lùng Khấu Nhin (huyện Mường Khương).
Sau 03 năm triển khai, thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 24/5/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kế hoạch số 239/KH-UBND ngày 19/5/2021 của UBND tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 đối với 10 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao; Tỉnh ủy, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các giải pháp để hoàn thành mục tiêu đến năm 2025 tỷ lệ hộ nghèo các xã còn lại 17,26%.

Vận động bà con đồng bào DTTS chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng cây có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Trong số 10 xã nghèo nhất của tỉnh Lào Cai, thì có tới năm xã nằm trên địa bàn huyện Mường Khương. Một trong những xã của huyện Mường Khương là Lùng Khấu Nhin đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp giảm nghèo, trong đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã phát huy hiệu quả tích cực. Cụ thể, đến thời điểm hiện tại, toàn xã có 484/684 hộ dân tham gia trồng chè với tổng diện tích 403,5 ha, trong đó diện tích cho thu hoạch là hơn 200 ha, năng suất đạt 80 tạ/ha, sản lượng 1.614 tấn/năm.
Xã La Pan Tẩn có 9 thôn, với 648 hộ và 3.515 nhân khẩu. Thời điểm năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo của xã lên đến hơn 69%, đến nay, tỷ lệ này đã giảm còn 52,25%.
Huyện đã triển khai hiệu quả các mô hình phát triển kinh tế, như: hỗ trợ phát triển sản xuất lúa Séng cù theo mô hình cánh đồng một giống; trồng quýt, chuối, dứa… Qua đó đã hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, như: vùng chè trên 5.000 ha, vùng dứa trên 1.500 ha, vùng chuối trên 500 ha, vùng quýt 815 ha; ngoài ra còn một số cây trồng đặc sản khác như lúa Séng cù 400 ha, ớt 200 ha.
Huyện cũng tăng cường triển khai các chương trình vay vốn, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế; thực hiện hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng các mô hình giảm nghèo. Cùng với đó là huy động, lồng ghép các nguồn lực để chung tay giảm nghèo; chú trọng đào tạo nghề và giải quyết việc làm ổn định để góp phần giúp người dân tăng thu nhập, tiến tới thoát nghèo bền vững.
Mường Khương cũng chú trọng đầu tư kết cấu hạ tầng và các công trình xây dựng cơ bản phục vụ nhu cầu thiết yếu cho người dân; xây dựng và nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả gắn với chương trình mỗi xã một sản phẩm; thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã trên cơ sở liên kết theo chuỗi giá trị với cơ sở chế biến để bảo đảm ổn định nguồn tiêu thụ nông sản.
Thực hiện Nghị quyết 20, huyện Văn Bàn có 12 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, giao thông xuống cấp, việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp bị hạn chế, nhiều người dân còn mang nặng tư tưởng trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước. Trong đó, xã Nậm Chày là một trong 10 xã nghèo nhất của tỉnh Lào Cai nói chung và huyện Văn Bàn nói riêng. Đây là xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhất; chất lượng nguồn nhân lực hạn chế nhất; kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận dịch vụ, phúc lợi xã hội cơ bản khó khăn nhất và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Xác định rõ những thách thức trên, Văn Bàn đã chủ động triển khai nhiều biện pháp cụ thể với 8 nhiệm vụ như: giảm hộ nghèo, hộ cận nghèo và tái nghèo; đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động... Huyện Văn Bàn cũng chủ trương lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm phát huy tối đa nguồn lực, coi trọng việc gắn giảm nghèo bền vững với chương trình xây dựng nông thôn mới.
Đồng thời, UBND huyện cũng đã chỉ đạo các tổ công tác giúp đỡ các thôn, bản sắp xếp thời gian bám nắm cơ sở tối thiểu 2 lượt/tháng có mặt tại thôn bản được phân công giúp đỡ, tổ chức rà soát và xây dựng kế hoạch, lựa chọn giải pháp hữu hiệu và kịp thời đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt công tác giảm nghèo bền vững tại địa bàn thôn bản do tổ phụ trách.
Với sự vào cuộc của hệ thống chính trị và nỗ lực của người dân, kết quả giảm nghèo thời gian qua của xã Nậm Chày đã đạt nhiều kết quả tích cực: toàn xã còn 229 hộ nghèo/565 hộ, chiếm tỷ lệ 40,53%, giảm 38 hộ nghèo so năm trước, tỷ lệ giảm hộ nghèo là 7,64% đạt 111,05% so với kế hoạch giao đầu năm (kế hoạch giao đầu năm giảm 35 hộ nghèo, tỷ lệ giảm hộ nghèo là 6,88%), hộ cận nghèo còn lại là 89 hộ chiếm tỷ lệ 15,75%.

Thực hiện các thủ tục cho người dân vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội tại huyện Mường Khương.
Với sự quyết tâm, quyết liệt trong chỉ đạo và sự vào cuộc của sở, ban, ngành và UBND các huyện có xã nghèo, kinh tế - xã hội 10 xã nghèo đã thu được kết quả tích cực, chỉ tiêu kế hoạch giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều trong 02 năm (2022-2023) đã giảm được 1.306 hộ (năm 2022 là 676 hộ; năm 2023 là 630 hộ), tỷ lệ giảm nghèo bình quân/01xã đạt trên 10% (năm 2022 là 11,15%, năm 2023 10,41%. Đến hết năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo bình quân của 10 xã nghèo còn lại 50,54% (tương đương số hộ nghèo còn lại 3.124 hộ); Tính đến hết năm 2023, bình quân tiêu chí/xã của 10 xã là 5,8 tiêu chí/xã (đánh giá theo Bộ tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2021-2025), tăng trung bình 1,6 chỉ tiêu/ 01 xã so với năm 2022; công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ chủ chốt nâng cao năng lực cho xã tiếp tục được tăng cường; đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho số lao động trên địa bàn đi làm tại các cơ sở sản xuất kinh doanh, danh nghiệp được đảm bảo với số lượng lao động có việc làm, y tế tiếp tiếp tục được quan tâm đầu tư và duy trì ổn định về số lượng, chất lượng; phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, chuyển cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao hiệu quả canh tác, cùng với phát triển các mô hình sản xuất theo hướng giá trị hóa đã được ngành nông tích cực triển khai; chuyển đổi mô hình sản xuất kinh tế hộ sang mô hình kinh tế tập thể tổ hợp tác, Hợp tác xã, tổ chức chăn nuôi và trồng trọt theo mô hình sản xuất hàng hóa tập trung gắn với phát triển thương hiệu sản phẩm nông nghiệp, xây dựng thương hiệu OCOP, mã truy xuất nguồn gốc điện tử nhằm nâng cao giá trị hàng hóa và quảng bá sản phẩm trên thị trường; hoạt động tín dụng trên địa bàn tiếp tục được tăng cường cho vay để các hộ nghèo, hộ cận nghèo tổ chức sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập ổn định, từ đó nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần... Kết quả đạt được sau 03 năm triển khai có thể khẳng định là nỗ lực phấn đấu các cấp, các ngành cùng sự vào cuộc của Nhân dân các xã ý chí phấn đấu vươn lên thoát nghèo, quyết tâm hoàn thành thắng lợi mục tiêu nghị quyết Đại hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức trong công tác giảm nghèo, xóa nghèo, nhất là ở vùng “lõi nghèo”, vì Lào Cai vẫn là một tỉnh nghèo so với mặt bằng chung của cả nước, khó khăn về cân đối ngân sách, đầu tư cho phát triển cơ bản phụ thuộc vào hỗ trợ của Trung ương; thiên tai thường xuyên xảy ra, hộ nghèo chủ yếu tập trung vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong khi các điều kiện khó khăn, thiếu việc làm lại tập trung vùng này, vì vậy điều kiện để thoát nghèo gặp nhiều khó khăn và luôn tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo...
Để giảm nghèo, xóa nghèo bền vững, Lào Cai đã đưa ra những nhiệm vụ trọng tâm như: nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, của bí thư chi bộ, sự tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong xã, trong thôn, bản huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong xã.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, có sự đổi mới nội dung, phương thức để phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Chính phủ, của tỉnh về các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với các khu vực đặc biệt khó khăn; chú trọng tuyên truyền các chính sách thực hiện chương trình MTQG: Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Giảm nghèo bền vững; Nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 đến với người dân, để từ đó thay đổi tư duy, nhận thức của người dân “Khơi dậy ý trí, tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên thoát nghèo của các hộ dân”, tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Có tư duy mới, cách làm khác trong xây dựng mô hình phát triển kinh tế-xã hội, ứng dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất, tiêu thụ tạo thành chuỗi liên kết với các địa phương khác, với các doanh nghiệp chung tay xây dựng, củng cố và phát huy tổ hợp tác xã, mô hình hợp tác xã trong sản xuất, tiêu thụ, trong quảng bá sản phẩm.
Huy động tối đa nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân để phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng nông nghiệp... Sử dụng hiệu quả, lồng ghép nguồn vốn trong các chương trình mục tiêu quốc gia để thúc đẩy những lĩnh vực cần vốn, cần đầu tư.
Tin tưởng rằng, với các nguồn lực đầu tư của trung ương, địa phương, cùng với sự vào cuộc tập trung, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; sự đồng thuận của người dân, sẽ xóa được “lõi nghèo”, đồng thời từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đặc thù./.