Bát Xát mở rộng mô hình rau hữu cơ

Không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, không phân bón hóa học, mô hình trồng rau hữu cơ do Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bát Xát triển khai bước đầu đã mang lại hiệu quả tích cực. Từ mô hình điểm với cây rau bí, huyện đang từng bước mở rộng sang nhiều loại rau màu khác, hình thành vùng sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn.

 

Tại khu sản xuất của Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bát Xát, những luống rau bí xanh mướt đang vào vụ thu hoạch chính. Đây là mô hình sản xuất theo quy trình hoàn toàn hữu cơ, từ khâu làm đất, xử lý phân bón đến chăm sóc đều không sử dụng thuốc trừ sâu hay hóa chất tổng hợp. Mô hình được triển khai không chỉ hướng đến cung cấp thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng, mà còn tạo hướng đi mới cho sản xuất rau tại địa phương.

rau-bi-trong-huu-co-an-toan-cho-nguoi-tieu-dung.jpg
Rau bí hữu cơ đang vào chính vụ thu hoạch.

Chị Bùi Thị Xuân, cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện cho biết, rau được chăm sóc theo phương pháp tự nhiên, chỉ dùng phân gà đã xử lý, hoàn toàn không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Việc sản xuất hữu cơ đòi hỏi nhiều công chăm sóc, theo dõi sát sao tình trạng cây trồng, nhưng đổi lại, sản phẩm rau mềm, ngọt, tươi lâu và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

baolaocai-c_thu-hoach-rau.jpg
baolaocai-c_rau-bi-huu-co-cho-rau-mem-ngon-xanh-muot.jpg
Rau bí trồng hữu cơ có màu xanh mướt, ăn mềm, vị ngọt nhẹ.

Mô hình được triển khai trên 3 ha đất, trồng cả rau lấy ngọn và rau cho quả. Sau khoảng 2 tháng trồng, rau bí bắt đầu cho thu hoạch ngọn, kéo dài 1,5 đến 2 tháng. Mỗi ngày, Trung tâm cung cấp ra thị trường khoảng 150 - 160 mớ rau, với giá bán từ 8.000 - 10.000 đồng/mớ. Quả bí cũng đã vào vụ, giá thu mua liên kết 8.000 đến 10.000 đồng/kg. Nhờ tiêu thụ ổn định qua hệ thống cửa hàng nông sản sạch và kênh bán hàng trực tuyến, mô hình không những tránh được tình trạng “được mùa mất giá”, mà còn làm tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp sạch.

Hiệu quả kinh tế từ mô hình ước đạt khoảng 100 - 120 triệu đồng/ha/vụ, cao gấp 2 - 3 lần so với trồng cây ngô. Quan trọng hơn, mô hình đã mở ra cách làm mới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng cao, đó là chú trọng chất lượng, an toàn và phát triển bền vững thay vì chỉ chạy theo sản lượng.

3.jpg
1.jpg
Quả bí cũng bắt đầu vào vụ thu hoạch.

Không chỉ nhận được sự đánh giá cao từ cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương, sản phẩm rau hữu cơ của Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp Bát Xát còn được người tiêu dùng tin tưởng, đặc biệt là qua kênh mua sắm trực tuyến.

Chị Trần Lan Anh, nhân viên văn phòng tại thành phố Lào Cai, khách hàng thường xuyên đặt rau qua mạng xã hội, cho biết: Tôi biết đến rau hữu cơ của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp Bát Xát qua một fanpage bán nông sản sạch. Lúc đầu tôi cùng đồng nghiệp mua thử vài bó ngọn bí, ăn thấy mềm, vị ngọt, khác hẳn với rau mua ngoài chợ nên đặt đều mỗi tuần.

2.jpg
Quả bí bán cho đơn vị liên kết với giá từ 8.000 đến 10.000 đồng/kg.

Từ kết quả tích cực bước đầu, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bát Xát đang xây dựng kế hoạch mở rộng quy mô, không chỉ tăng diện tích rau bí mà còn từng bước thử nghiệm và đưa vào sản xuất các loại rau hữu cơ khác như cải ngồng, cải nương, xà lách, đậu cô ve, bắp cải… Việc đa dạng hóa cây trồng giúp tận dụng điều kiện đất đai, khí hậu vùng cao, đồng thời đáp ứng nhu cầu của thị trường về thực phẩm sạch.

"Chúng tôi đặt mục tiêu từng bước hình thành vùng sản xuất rau hữu cơ quy mô nhỏ nhưng ổn định, gắn với tiêu thụ theo chuỗi, tiến tới xây dựng thương hiệu rau hữu cơ Bát Xát" - ông Vũ Văn Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bát Xát cho biết thêm.

Việc mở rộng mô hình rau hữu cơ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo đầu ra ổn định cho nông dân mà còn chú trọng đến bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và cải thiện môi trường canh tác. Mô hình rau hữu cơ tại Bát Xát đang dần lan tỏa, hứa hẹn tạo ra vùng sản xuất nông nghiệp xanh, sạch, bền vững và hiệu quả hơn trong thời gian tới.

https://baolaocai.vn/bat-xat-mo-rong-mo-hinh-rau-huu-co-post403921.html

 

Kim Thoa/Báo Lào Cai điện tử

Tin Liên Quan

Quýt Mường Khương: Từ cây xóa nghèo đến thương hiệu nông sản vùng biên

Giữa tiết trời đầu đông vùng biên giới phía Bắc, những triền đồi quýt chín vàng ở Mường Khương không chỉ mang lại mùa quả ngọt mà còn kể câu chuyện sinh động về một hướng đi đúng trong phát triển nông nghiệp hàng hóa. Từ những nương đồi đá tai mèo khô cằn, cây quýt hôm nay đã vươn lên trở thành cây...

Actiso Sa Pa – khi liên kết bền vững trở thành “đòn bẩy” thoát nghèo cho người dân tộc thiểu số

Nhờ mô hình liên kết trồng và chế biến cây dược liệu Actiso, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở Sa Pa đã chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, thu nhập bấp bênh sang phát triển kinh tế bền vững, có đầu ra ổn định. Sự thay đổi này bắt nguồn từ việc phát huy giá trị bản địa, kết nối doanh nghiệp với...

Xã Bản Xèo tạo sinh kế bền vững từ cây dong riềng

Từ một loại cây trồng phụ xuất hiện trong những mảnh vườn nhỏ, cây dong riềng đã trở thành “chìa khóa sinh kế” giúp đồng bào xã Bản Xèo, tỉnh Lào Cai thoát nghèo bền vững. Việc mạnh dạn chuyển đổi mô hình cây trồng đã mở ra hướng đi mới cho kinh tế địa phương, hình thành chuỗi sản xuất – chế...

Hiệu quả tích cực từ chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai

Trong những năm qua, tỉnh Lào Cai đã ban hành và triển khai nhiều chính sách thiết thực nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới.

Chuyển đổi số – động lực mới trong xây dựng nông thôn mới

Chuyển đổi số đang trở thành một trong những yếu tố then chốt trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại Lào Cai. Trên cả ba trụ cột: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số, nhiều giải pháp đã và đang được triển khai đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, thay đổi phương thức sản xuất và cải...

Lào Cai: Phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với xoá đói, giảm nghèo

Trong những năm qua, khu vực nông thôn tỉnh Lào Cai có nhiều chuyển biến tích cực, hạ tầng giao thông, điện, nước, trường học được đầu tư; sản xuất nông nghiệp từng bước chuyển đổi sang hướng hàng hóa, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; đời sống vật chất, tinh thần của người dân cải thiện rõ rệt.